Tên di sản : Đền An Đông
Tỉnh/Thành phố : Thanh Hóa
Loại di tích :
Di tích lịch sử
Sô quyết định : Số 55/QĐ – VHTT
Giới thiệu
Chùa An Đông (An Đông Tự) là nơi thờ Phật và các liệt thánh của Đạo Nội Tràng ở làng Yên Đông (hay An Đông), xã Quảng Hải, huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa.
Làng Yên Đông xưa thuộc Đại Lộc thôn, với nhiều dòng họ quy tụ sinh cơ lập nghiệp tại đây như họ Nguyễn Văn, Nguyễn Đức, Hoàng Văn, Đào Xuân, Cao Văn, Bùi Ngọc, Trần Trọng, Lê Ích... Quá trình phát triển dân cư, Đại Lộc thôn chia thành 2 làng mới: làng Yên Đông (nay là làng Bồi Nguyên) và làng Mậu Thịnh (nay là làng Mậu Xương) thuộc xã Quảng Lưu.
Tại làng Yên Đông có ông Trần Tướng Công, tức Quỳnh Lâm Hầu do có công lao lớn với nước nên được vua phong tới chức Điện tiền Chỉ huy sứ trong triều. Lúc bấy giờ tuổi ngoài ngũ tuần, ông xin về quê tĩnh dưỡng năm Quang Hưng thứ 18. Ông sinh được một người con trai là Trần Ngọc Lành tức Trần Ngọc Trân được ăn học tại trường Quốc Tử Giám. Khi học hành thành đạt, vì thời thế nhiễu nhương, ông không ra làm quan, mà làm nghề thầy thuốc. Ông đã chữa bệnh cho con Chúa Trịnh. Do vậy, nhà Vua cấp tiền cho phép dạy học ở thôn xứ và phong cho Nội Đạo Tràng. Do có công trong việc chữa bệnh và dạy học, khi ông qua đời được phong tặng: “Thượng đẳng thần”, hiện nay còn có 2 ngôi chùa thờ ông, đó là: Chùa Yên Đông thuộc thôn 6, làng Bồi Nguyên, xã Quảng Hải và chùa Tuyết Sơn Phong Tự tại thôn 2 làng Mậu xương, xã Quảng Lưu và sự tích Phật An Đông giáng hạ tại đây.
Chùa Yên Đông thờ Đức Phật Tổ và các liệt thánh của đạo Nội Đạo. Bố mẹ Ngài thân phụ là Đức Quỳnh Lâm Hầu - Thích Nhân Thượng Sỹ Trần Tướng Công, thân mẫu là Hiệu Từ Ái, sinh ngài vào ngày 11/6 năm Quý Mùi, Ngài được đầu thai con Vua nước Tây Vực là Na - La - Tri - Phật. Ngài có nét mặt như vầng trăng rằm, đức tính ôn hòa, văn thao, võ lược, 2 đường tinh thông. Đến tuần nhị bát cha mẹ cho ngài ăn học ở chốn đế kinh, vào ứng thi đỗ đại khoa, phụ thân Ngài làm quan ở tỉnh Quảng Ninh.
Ngài thấy trong lòng chán ngán bởi thời thế nhiễu nhương nên treo ấn từ quan về nhà phụng dưỡng cao đường cho trọn đạo hiếu. Ngài thấy vậy vẫn không yên tâm, xuất thân làng Từ Minh xã Từ Minh, huyện Hoằng Hóa (nay là Hoằng Long) lập tĩnh đường dạy đạo. Phật thường thường xuống truyền đạo pháp. Một mình Ngài dậy 1.000 đệ tử cả trong Nam ngoài Bắc. Ôn hòa, dịch lệ, tà ma, qủy quái hiện hình, hiện ảnh nhiễu hại nhân dân, Ngài phải mang môn đồ đi trừ Hồ tinh, bắn 12 thần sóng của 12 cửa biển, từ đó dân yên, biển lặng, dân 2 miền làm ăn thịnh vượng. Ngài lại đóng bè chở khách qua sông Mã lấy tiền của người phú, giúp cho người nghèo, Phật trời thử Ngài, mùa đông giá rét Phật trời gọi mỗi tối 10 lần, mới nằm xuống ấm chỗ lại gọi, chống đò sang lại chẳng thấy ai, đợi một lúc lại quay về, cứ như thế suốt đêm. Đến sáng gọi Ngài sang đò mới thấy một ông cụ râu, tóc bạc phơ, chở cụ sang, cụ đau bụng, Ngài sắc nước hoắc hương cho cụ uống, cụ không uống, cụ chỉ ngửi mà khỏi bệnh, cụ đưa một nén bạc cho Ngài, Ngài không lấy và tiễn cụ lên đường, cụ ngoảnh lại nói: “không lấy tiền là tuyệt được chữ tham rồi, đêm đông giá lạnh qua sông tới 10 lần mà không than vãn gọi là tuyệt được Sân rồi”. Về nhà Ngài mới ngẫm lại và ngộ ra, đây là Phật trời thử Ngài.
Tiền của Ngài làm ra đem bắc cầu cống và cứu khổ, hoạn nạn cho dân, Ngài lại chữa bệnh cho Lê Nhân Tông bị bệnh hóa hổ, chữa cho Thái tử bị cảm. Trong khi đó trong nước rối loạn giặc ngoại xâm, Ngài làm quân sư hộ cho Vua Lê dẹp giặc ngoại xâm, Ngài sang nước Tàu sau đó về bái yết nhà Vua. Vua Lê phong sắc dựng Đạo Tràng. Môn học của Ngài chia làm 3 mục: Thượng Thừa Thuyền, Đại Thừa Thuyền, Trung Thừa Thuyền nối theo là Tiểu Thừa Thuyền. Bộ môn học gồm 6 môn: Quán Thiên, Triệt Địa, Duy Sơn, Tắc Hải, Khốc Qủy, Kinh Thần.
Đến năm ngoài 30 tuổi Ngài mới nghĩ đến Đạo phụng tiên du, Ngài mới kết duyên với bà Hoàng Thị Kế quê Hoằng Long, Hoằng Hóa. Một năm sau đức phu nhân sinh được Đức Đệ Nhất mệnh danh là Trần Ngọc Tích, cách 2 năm sau lại sinh được Đức Đệ Nhị mệnh danh là Trần Ngọc Khang, cuối cùng sinh được Đức Đệ Tam mệnh danh là Trần Ngọc Vinh. Ba đức thánh: Đức Thánh tả, Đức Thánh hữu, Đức Thánh tiền. Hai Đức Thánh tả, hữu thăng thiên đường, còn Đức Thánh tiền sắc phong cho Ngọc Sư ở lại trần gian giữ sổ thiện ác của nước An Nam. Đức Phật Tổ đến năm Quý Mùi ngoài 60 tuổi, ngày 28 tháng Giêng thì Ngài hóa thân thành Phật, đạo quả đã tròn, duyên trẩn đã mãn. Năm ấy ngày mùng 8 tháng 10, Đức phu nhân quy hóa Chính phối Nam hải Quán Thế Âm Bồ Tát - Hoàng Quý Thị - Hiệu Chân Khoa Không Phật - Hiệu Từ Kế.
Đức tiền quan đánh nhau với bà Chúa Liễu - tức Bà Liễu Hạnh con Vua Ngọc Hoàng, trong khi yến tiệc lỡ tay đánh vỡ chén ngọc, Ngọc Hoàng mắng vô lễ, bị Ngọc Hoàng đẩy xuống trần gian, bà lấy chồng sinh được 2 con, đến 21 tuổi bà chết. Chết rồi bà còn hóa xác thành người đi về thờ chồng, nuôi con, gia đình và dân làng kinh sợ hoảng hốt. Bà đi buôn bán khắp phố phường, ai mua của bà, bà không ưng ý bà bóp chết tươi. Vua Lê biết thế lấy cớ về thăm gia nội, bà giữ kiệu Vua, ai không nghiêng tàu xuống ngựa bà bóp chết. Vua thấy làm lạ họp các quan lại, mời Đức Thánh Tiền đi dẹp. Nhận lệnh Vua, một mình Ngài cùng quan Tiết chế dẫn quân đi đánh, Ngài đi ngựa vào của phủ bà Hạnh, cho ngựa uống nước suối, cột ngựa trước cửa Đền rồi vào thềm mài kiếm. Bà Liễu Hạnh thấy lạ, từ trên núi xuống mời Ngài vào phòng khách đón tiếp. Ngài thu toàn bộ bí quyết ấn phép của bà rồi trở ra, bố trận cùng quan thiết chế đánh bà, đốt cháy cung miếu 7 ngày đêm, từ Đền Sòng phố Cát vào đến Nghệ An, bà nhảy xuống giếng, nửa âm, nửa dương hóa thành đầu rồng, đuôi tôm, Ngài cho Thần xích, câu, kéo bà lên. Được Phật thế tôn cứu, từ đó bà cải tà quy chính. Nhân dân được bình yên và cho bà về nơi Đền Sòng phố Cát. Sau khi nước nhà yên ổn, duyên trần đó mãn, Ngài Tiền Quan ra Thăng Long tạ Vua Lê về nhà vào Nghệ An hóa thân hiển Thánh vào ngày mùng 8 tháng 7 âm lịch. Mộ của Ngài cất trước cửa Chùa Nhuận, làng Đào Hoa, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An.
Còn về chùa Yên Đông thuở xưa, khi khởi thủy tổ chỉ đơn sơ hòa mao nhất tòa, lô nhang nhất Vị, có nghĩa là: (Nhà tranh một cái, lô nhang chỉ có một bát). Đời vua Bảo Đại (1925-1945), ông Lý Bỗng, ông Trần Ngọc Trung, và ông Đái Nguyên Sung cùng bà chủ Tâm, sếp ga xe lửa từ Hà Đông đi Thanh Hóa. Bà vào cung tiến xây dựng gác chuông và tôn t���o tiền đường và cung tiến chuông chùa. Năm (1995), ông Trần Ngọc Toàn cùng anh em trong dòng tộc trùng tu tôn tạo mới toàn bộ chính tẩm. Năm 2005, xây dựng Từ đường và giải tỏa đường vào, xây tường dắc, sắm thêm nội thất gồm: 3 tượng Tam Bảo Phật, 1 tượng Thượng Sư, 1 tượng Đức Ông…
Trải qua gần 100 năm, qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, kiến trúc cũ của ngôi chùa bị biến dạng. Chùa đã trải qua nhiều lần trùng tu tôn tạo, anh em dòng tộc cùng với bà con nhân dân trong làng Bồi Nguyên, xã Quảng Hải đóng góp tiền của, trùng tu tôn tạo mới toàn bộ nơi chính tẩm, mua sắm thêm nội thất gồm: 3 tượng Tam Bảo Phật, 1 tượng Thượng Sư, 1 tượng Đức Ông. Chùa Yên Đông đang dần trở lại được như xưa, và đây cũng là địa chỉ quen thuộc và hấp dẫn nhiều du khách trong xã, trong huyện. Hướng về ngày giỗ Phật 28 tháng Giêng hàng năm, các cụ ông, cụ bà, cùng nhân dân trong làng tổ chức nghi thức tế lễ như xưa, nào là chủ tế, bồi tế, kiệu rồng, cờ, phướn tung bay phấp phới hành lễ tiến về chùa Yên Đông rộn ràng theo tiếng trống tiếng kèn.